Hiển thị các bài đăng có nhãn điện toán đám mây. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn điện toán đám mây. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 4 tháng 5, 2015

10 câu hỏi thường gặp về điện toán đám mây (Cloud computing)


Mô hình điện toán đám mây dường như ngày càng được ưa chuộng. Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây cho thấy vấn đề về bảo mật là rào cản lớn nhất quyết định liệu điện toán đám mây có được sử dụng rộng rãi nữa hay không. Điện toán đám mây hay điện toán máy chủ ảo là mô hình điện toán sử dụng các công nghệ máy tính và phát triển dựa vào mạng Internet. Thuật ngữ "đám mây" ở đây chính là mạng Internet và các kết cấu hạ tầng bên trong.



Trên thực tế, điện toán đám mây đơn giản chỉ là một bước tiến khác trong cách mạng công nghệ thông tin. Mô hình đám mây được phát triển dựa trên 3 yếu tố cơ bản gồm máy tinh trung ương, máy chủ/khách và ứng dụng Web. Nhưng bản chất của 3 thành phần này đều tồn tại các vấn đề về bảo mật.

Các vấn đề bảo mật vẫn không ngăn được sự bùng nổ công nghệ cũng như sự ưa chuông điện toán đám mây bởi khả năng giải quyết và đáp ứng các nhu cầu bức thiết trong kinh doanh. Để đảm bảo an toàn cho đám mây điện toán, chúng ta cần nắm được vai trò của nó trong sự phát triển công nghệ. Rất nhiều câu hỏi tồn tại xung quanh những ưu và khuyết điểm khi sử dụng điện toán đám mây trong đó tính bảo mật, hữu dụng và quản lí luôn được chú ý xem xét kĩ lưỡng. Bảo mật là đề tài được giới người dùng thắc mắc nhiều nhất và sau đây là 10 câu hỏi hàng đầu được đặt ra để quyết định liệu việc triển khai điện toán đám mây có phù hợp hay không và nếu không thì nên chọn mô hình nào cho phù hợp: cá nhân, công cộng hay cả 2.

1. Khả năng rủi ro khi triển khai mô hình điện toán đám mây?


Dù mang tính chất cá nhân hay công cộng thì chúng ta vẫn không thể hoàn toàn quản lí được môi trường, dữ liệu và kể cả con người. Những thay đổi trong mô hình có thể làm tăng hoặc giảm rủi ro. Những ứng dụng đám mây cung cấp thông tin rõ ràng, các công cụ thông báo tiên tiến và tích hợp với hệ thống sẵn có sẽ làm giảm rủi ro. Tuy nhiên, một vài ứng dụng khác lại không thể điều chỉnh các trạng thái bảo mật, không phù hợp với hệ thống sẽ làm gia tăng rủi ro.

2. Cần phải làm gì để chắc chắn chính sách bảo mật hiện tại tương thích với mô hình đám mây?

Mỗi thay đổi trong mô hình là mỗi dịp để ta cải thiện tình trạng và chính sách bảo mật. Vì người sử dụng sẽ tác động và điểu khiến mô hình đám mây nên chúng ta không nên tạo ra chính sách bảo mật mới. Thay vào đó là mở rộng chính sách hiện thời để tương thích với các nền tảng kèm theo. Để tay đổi chính sách bảo mật thì ta cần xem xét các yếu tố tương quan như: dữ liệu sẽ được lưu ở đâu, bảo vệ như thế nào, ai được phép truy cập, và cần tuân theo những quy tắc và thỏa hiệp gì.

3. Việc triển khai mô hình đám mây có đáp ứng được yêu cầu ủy thác?

Triển khai mô hình đám mây tác động đến tỉnh rủi ro và ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng các quy tắc khác nhau. Một vài ứng dụng đám mây có khả năng thông báo hay báo cáo tình trạng hoạt động mạnh mẽ đồng thời được thiết lập để đáp ứng những yêu cầu thích ứng riêng biệt. Trong khi một số lại quá chung chung và không thể đáp ứng được những yêu cầu chi tiết. Ví dụ như khi chúng ta truy xuất dữ liệu, một thông báo hiện ra cho biết dữ liệu chỉ được lưu trữ trong phạm vi lãnh thổ (server trong nước) thì chúng ta không thể truy xuất được bởi các nhà cung cấp dịch vụ không thể thực hiện yêu cầu này.

4. Liệu các nhà cung cấp dịch vụ sử dụng các chuẩn bảo mật hay theo thực tế kinh nghiệm (SAML, WSTrust, ISO, v.v..)?

Các tiêu chuẩn có vai trò quan trọng trong điện toán đám mây như một sự tương kết giữa các dịch vụ và ngăn tình trạng độc quyền dịch vụ bảo mật. Rất nhiều tổ chức được thành lập nhằm khởi tạo và mở rộng để hổ trợ trong bước khởi đầu triển khai mô hình. Danh sách các tổ chức hổ trợ được liệt kê tại: Cloud-standards.org.

5. Điều gì sẽ xảy ra nếu vi phạm và xử lý như thế nào?

Khi lên chương trình bảo mật cho mô hình, chúng ta cũng cần lên kế hoạch giải quyết các lỗi vi phạm và tình trạng mất dữ liệu. Đây là yếu tố quan trọng trong các điều khoảng của nhà cung cấp và được thực hiện bởi cá nhân. Chúng ta buộc phải đáp ứng những chính sách và điều lệ do nhà cung cấp đề ra để đảm bảo được hổ trợ kịp thời nếu gặp sự cố.

6. Ai sẽ quan sát và chịu trách nhiệm bảo đảm an toàn cho dữ liệu?

Trên thực tế thì trách nhiệm bảo mật được chia sẻ. Tuy nhiên, ngày nay vai trò này lại thuộc về hệ thống thu thập dữ liệu mà không phải nhà cung cấp. Chúng ta có thể đàm phán để giới hạn trách nhiệm đối với viêc mất mát dữ liệu cụ thể là chia sẻ vai trò này với nhà cung cấp. Nhưng cuối cùng, chúng ta vẫn là người chịu trách nhiệm.

7. Làm thế nào để chắc chắn rằng những dữ liệu phù hợp đã được chuyển vào mô hình?

Để biết được dữ liệu nào đã được chuyển vào đám mây, chúng ta phải hiểu dữ liệu là gì và xây dựng một hệ thống bảo mật phù hợp dựa trên dữ liệu và các ứng dụng. Quy trình này tốn nhiều thời gian để bắt đầu và rất nhiều công ty sử dụng công nghệ chống rò rỉ dữ liệu để phân loại và theo dõi dữ liệu.

8. Làm thế nào để chắc chắn những nhân viên, đối tác và khác hàng được ủy quyền có thể truy xuất dữ liệu và ứng dụng?

Vấn đề về quản lí thông tin truy cập và truy xuất dữ liệu là một thách thức trong bảo mật. Các công nghệ như truy cập chéo miền (federation), hệ thống ảo an toàn, và dự phòng đóng vai trò quan trọng trong bảo mật điện toán đám mây. Hổ trợ đám mây bằng cách mở rộng và bổ sung môi trường có thể giúp giải quyết thách thức này.

9. Dữ liệu và ứng dụng được đăng tải như thế nào, công nghệ bảo mật nào thưc hiện công việc này?

Các nhà cung cấp đám mây sẽ cung cấp thông tin này cũng như trực tiếp tác động đến khả năng đáp ứng các yêu cầu của một tổ chức hay cá nhân. Do đó, yếu tố rõ ràng là rất cần thiết đối với chúng ta trước khi đưa ra quyết định.

10. Yếu tố nào khiến chúng ta có thể tin tưởng vào nhà cung cấp?

Rất nhiều yếu tố đề ra để đánh gía độ tin cậy của một nhà cung cấp như: kỳ hạn dịch vụ, hình thức hợp đồng, thủ tục SLAs (Service Level Agreements) thỏa hiệp hợp đồng dịch vụ, chính sách bảo mật, tiểu sử hoạt động, chiến lược, và danh tiếng. Tuy nhiên, vẫn chưa có câu trả lời chính xác cho câu hỏi trên.

Cơ bản về điện toán đám mây - Cloud Computing

Trong vài năm qua, Công nghệ thông tin (IT) đã bắt đầu một mẫu hình mới — điện toán đám mây. Mặc dù điện toán đám mây chỉ là một cách khác để cung cấp các tài nguyên máy tính, chứ không phải là một công nghệ mới, nhưng nó đã châm ngòi một cuộc cách mạng trong cách cung cấp thông tin và dịch vụ của các tổ chức.



Lúc đầu điện toán trên máy tính lớn (mainframe) thống trị công nghệ thông tin. Cấu hình mạnh mẽ này cuối cùng đã cho ra đời mô hình khách-chủ. Công nghệ thông tin hiện đại ngày càng trở thành một chức năng của công nghệ di động, điện toán lan tỏa hoặc mọi nơi và tất nhiên, cả điện toán đám mây. Tuy nhiên, cuộc cách mạng này, giống như mọi cuộc cách mạng, có các thành phần của quá khứ mà từ đó nó phát triển lên.

Vì vậy, để đưa điện toán đám mây vào đúng bối cảnh này, hãy nhớ rằng trong DNA của điện toán đám mây về cơ bản là sự tạo ra các hệ thống tiền thân của nó. Về nhiều mặt, sự thay đổi quan trọng này là vấn đề "trở lại tương lai" chứ không phải là sự kết thúc hẳn của quá khứ. Trong thế giới mới dũng cảm của điện toán đám mây, có chỗ cho sự cộng tác sáng tạo của công nghệ đám mây và cho các tiện ích đã qua thử thách của các hệ thống tiền thân đó, ví dụ như các máy tính lớn mạnh mẽ. Sự thay đổi thực sự ấy trong cách chúng ta tính toán mang lại các cơ hội to lớn cho nhân viên công nghệ thông tin để kiểm soát sự thay đổi và sử dụng chúng cho lợi ích cá nhân và tổ chức của họ.
Điện toán đám mây là gì?

Điện toán đám mây là một giải pháp toàn diện cung cấp công nghệ thông tin như một dịch vụ. Nó là một giải pháp điện toán dựa trên Internet ở đó cung cấp tài nguyên chia sẻ giống như dòng điện được phân phối trên lưới điện. Các máy tính trong các đám mây được cấu hình để làm việc cùng nhau và các ứng dụng khác nhau sử dụng sức mạnh điện toán tập hợp cứ như thể là chúng đang chạy trên một hệ thống duy nhất.

Tính linh hoạt của điện toán đám mây là một chức năng phân phát tài nguyên theo yêu cầu. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng các tài nguyên tích lũy của hệ thống, phủ nhận sự cần thiết phải chỉ định phần cứng cụ thể cho một nhiệm vụ. Trước điện toán đám mây, các trang web và các ứng dụng dựa trên máy chủ đã được thi hành trên một hệ thống cụ thể. Với sự ra đời của điện toán đám mây, các tài nguyên được sử dụng như một máy tính gộp ảo. Cấu hình hợp nhất này cung cấp một môi trường ở đó các ứng dụng thực hiện một cách độc lập mà không quan tâm đến bất kỳ cấu hình cụ thể nào.

Tại sao lại đổ xô vào đám mây?

Có các lý do có cơ sở và quan trọng về kinh doanh và công nghệ thông tin đối với sự dịch chuyển sang mẫu hình điện toán đám mây. Việc coi thuê ngoài như một giải pháp có những điểm cơ bản được xem là các lý do ấy.

  •     Chi phí giảm: Điện toán đám mây có thể làm giảm cả chi phí vốn (CapEx) lẫn chi phí vận hành (OpEx) vì các tài nguyên chỉ được mua khi cần và chỉ phải trả tiền khi sử dụng.
  •     Cách sử dụng nhân viên được tinh giản: Việc sử dụng điện toán đám mây giải phóng đội ngũ nhân viên quý giá cho phép họ tập trung vào việc cung cấp giá trị hơn là duy trì phần cứng và phần mềm.
  •     Khả năng mở rộng vững mạnh: Điện toán đám mây cho phép khả năng điều chỉnh quy mô ngay lập tức hoặc tăng lên hoặc giảm xuống, bất cứ lúc nào mà không cần giao kết dài hạn.

Phát triển điện toán đám mây (Cloud computing)

Theo các chuyên gia công nghệ, năm 2015 sẽ là năm bùng nổ của thị trường điện toán đám mây khi hội tụ đủ những yếu tố như nhà cung cấp dịch vụ, mức độ sẵn sàng của doanh nghiệp, cơ chế chính sách…




Đặc biệt, với sự am hiểu thị trường, ngôn ngữ, các nhà cung cấp dịch vụ trong nước sẽ có ưu thế đặc biệt khi triển khai dịch vụ này.


Sẵn sàng


Nếu như cách đây vài năm, điện toán đám mây (Cloud Computing) còn khá xa lạ với người Việt Nam thì đến nay, thuật ngữ này đã trở nên phổ biến.

Thực tế cho thấy, điện toán đám mây hiện được coi là giải pháp hiệu quả nhất cho những vấn đề nhiều công ty đang gặp phải như thiếu năng lực CNTT, chi phí đầu tư hạ tầng hạn chế…  Có nhiều doanh nghiệp đang hoang phí tài nguyên như không khai thác hết công suất của hệ thống máy chủ, đầu tư quá nhiều về mặt con người. Trong khi đó, về lý thuyết, “đám mây” sẽ cho phép doanh nghiệp không cần tập trung quá nhiều cho cơ sở hạ tầng hoặc nâng cấp ứng dụng, không đòi hỏi nguồn nhân lực lớn và có thể dễ dàng thay đổi quy mô khi cần.

Theo ông Nguyễn Anh Tuấn, Đại diện của Cloud World (đơn vị hàng đầu về dịch vụ trên nền tảng điện toán đám mây), hiện thị trường Việt Nam đã dần tiếp cận các dịch vụ điện toán đám mây thông qua các dự án của những nhà phát triển, cung cấp trong nước như VDC (VNPT), FPT, Viettel với Microsoft, Intel… Và kết quả ban đầu cho thấy, khi áp dụng điện toán đám mây, hiệu suất kinh doanh của doanh nghiệp được cải thiện đáng kể.

Một khảo sát của VMware vào cuối năm 2013 chỉ ra rằng, có tới 83% doanh nghiệp Việt Nam coi đám mây là ưu tiên hàng đầu; 67% doanh nghiệp cho rằng điện toán đám mây có ảnh hưởng lớn tới hoạt động chuyển đổi kinh doanh. Đặc biệt, nhiều chỉ số cho thấy Việt Nam là nước có cách nhìn nhận về đám mây (41%) cao hơn trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương (35%).

Dẫn một khảo sát mới đây của Symantec, đại diện Cloud World cho biết hiện có khoảng 46% doanh nghiệp và tổ chức Việt Nam đang triển khai ứng dụng công nghệ điện toán đám mây và các dự án ảo hóa khác. Trong đó, 39% doanh nghiệp trong nước hiện đang sử dụng dịch vụ phần mềm ảo tư nhân (VPS), trong khi 21% đang ảo hóa máy chủ và cơ sở dữ liệu.

Trong năm 2014, việc Thủ tướng Chính phủ đồng ý cho cơ quan nhà nước thuê ngoài dịch vụ công nghệ thông tin cũng tạo đà cho các doanh nghiệp công nghệ có các dịch vụ trên nền tảng điện toán đám mây phát triển.

Ưu thế từ doanh nghiệp nội


Rõ ràng, với những ưu việt đem lại, nhiều chuyên gia nhận định điện toán đám mây hứa hẹn sẽ bùng nổ trong năm 2015. Thế nhưng, một trong những rào cản lại chính là ngôn ngữ.

Ông Nguyễn Anh Tuấn (Cloud World) nhận định, đa phần doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ và ngôn ngữ chính là rào cản lớn nhất trong việc tìm kiếm những công nghệ trợ giúp cho kinh doanh của họ. Chính vì thế, các nhà cung cấp dịch vụ trong nước sẽ là cầu nối cho doanh nghiệp trong nước với xu thế công nghệ thế giới. Việc này đòi hỏi một trình độ nhất định về công nghệ, sự am hiểu thói quen của doanh nghiệp Việt Nam và trên hết là khả năng đào tạo thị trường gắn với công nghệ. Và, điều đó chỉ ở các doanh nghiệp trong nước bởi họ là những người hiểu rõ người dùng nhất.

Cũng theo ông Anh Tuấn, hiện có nhiều doanh nghiệp lớn đang “bắt tay” cùng doanh nghiệp nhỏ hơn tham gia vào thị trường công nghệ điện toán đám mây và đem lại cho người dùng nhiều lựa chọn phù hợp.

Nhiều chuyên gia về công nghệ thông tin cũng cho rằng, việc “sánh đôi” với các doanh nghiệp trong nước là một trong những hướng đi đúng đắn của các tập đoàn lớn về điện toán đám mây nước ngoài. Hơn ai hết, những công ty công nghệ nội hiểu rất rõ nhu cầu công nghệ của các doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh đó, yếu tố pháp lý, văn hóa doanh nghiệp cũng sẽ giúp sự hợp tác thành công, đưa công nghệ tới người tiêu dùng đích thực. Đây có thể xem là sự bổ khuyết hợp lý để đưa công nghệ điện toán đám mây phát triển đột phá, đem lại lợi ích cho doanh nghiệp Việt Nam.

Tuy nhiên, các chuyên gia cũng khuyến cáo, để thị trường phát triển bền vững, bên cạnh việc hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp công nghệ nội cần phải tiến tới làm chủ công nghệ, nhất là vấn đề an toàn bảo mật để có thể chủ động trong việc phát triển thị trường, giải quyết ngay những vấn đề mà đối tác gặp phải trong quá trình sử dụng.

Chủ Nhật, 12 tháng 4, 2015

Công nghệ đầy triển vọng mang tên "Điện toán đám mây"

 Công nghệ “Điện toán đám mây” cho phép lưu trữ và xử lý toàn bộ thông tin trực tuyến trên Internet. Các mô hình “Điện toán đám mây” có khả năng cung cấp dịch vụ rất đa dạng và linh hoạt cho người dùng, giúp khách hàng tiết kiệm đáng kể nguồn nhân lực và vật lực.



Tuy nhiên, “Điện toán đám mây” đang tồn tại những hạn chế như: an ninh bảo mật; sự phụ thuộc người tiêu dùng vào công nghệ và chất lượng dịch vụ của các nhà cung cấp; sự đòi hỏi về mức độ phát triển của hạ tầng công nghệ thông tin… Tuy nhiên, đây là công nghệ có nhiều triển vọng sẽ được ứng dụng trên thế giới.

  “Điện toán đám mây” là gì ?

“Điện toán đám mây”, còn được gọi là “điện toán máy chủ ảo”, là mô hình điện toán sử dụng các công nghệ máy tính và phát triển dựa vào mạng Internet. Ở mô hình “Điện toán đám mây”, mọi yêu cầu của khách hàng liên quan đến công nghệ thông tin, đều được cung cấp dưới dạng các “dịch vụ”, cho phép người sử dụng truy cập các dịch vụ công nghệ từ một nhà cung cấp nào đó “trong đám mây” mà không cần phải mua sắm các cơ sở hạ tầng phục vụ công nghệ đó cũng như không cần phải có các kiến thức về công nghệ đó.

“Điện toán đám mây” là khái niệm tổng thể bao gồm các phần mềm dịch vụ, Web 2.0,… trong đó, nhiệm vụ chủ yếu của “Điện toán đám mây” là dựa vào Internet để đáp ứng những nhu cầu điện toán của người dùng. Thí dụ, dịch vụ Google App Engine cung cấp những dịch vụ kinh doanh trực tuyến thông thường, có thể truy cập được từ một trình duyệt Web, còn lại, các phần mềm và dữ liệu đều được lưu trữ trên các máy chủ.

Thuật ngữ “điện toán đám mây” có thể được diễn giải một cách đơn giản là, các nguồn điện toán khổng lồ như phần mềm, dịch vụ… sẽ nằm ở các máy chủ ảo trên Internet thay vì trong máy tính gia đình và văn phòng các doanh nghiệp (đặt trên mặt đất), để mọi người có thể kết nối và sử dụng khi cần. Với các dịch vụ có sẵn trên Internet, các doanh nghiệp không phải mua sắm thiết bị và duy trì hệ thống máy tính và phần mềm. Họ chỉ cần tập trung vào công việc kinh doanh lĩnh vực riêng của mình, vì đã có nhà cung cấp lo cơ sở hạ tầng và công nghệ thông tin thay cho họ.

Mô hình “Điện toán đám mây” có cấu trúc 3 tầng, gồm: các dịch vụ cơ sở hạ tầng ở dưới cùng; các dịch vụ nền tảng ở giữa; các dịch vụ ứng dụng ở trên cùng. Nhìn vào cấu trúc này, người ta có thể đánh giá chính xác các quy mô của khối công nghệ thông tin, bởi nó liên quan đến chi phí, yêu cầu không gian vật lý, bảo trì, quản lý, giám sát và mức độ lạc hậu của công nghệ đang vận hành.

Những tiện ích của “Điện toán đám mây”

So với điện toán truyền thống, “Điện toán đám mây” đã và đang đưa lại rất nhiều tiện ích cho đời sống hiện nay, trong đó nổi trội hai vấn đề sau:

Một là, công nghệ “Điện toán đám mây” giúp cho khách hàng tiết kiệm đáng kể về tài chính và nguồn nhân lực, bởi “Điện toán đám mây” đã giúp khách hàng cắt bỏ các khoản chi phí đầu tư cho cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và cắt giảm được bộ phận quản lý, bảo trì các cơ sở này. Khách hàng chỉ phải trả một số tiền nhất định cho nhà cung cấp dịch vụ “đám mây”, ít hơn rất nhiều so với mô hình điện toán truyền thống.

Hai là, các mô hình “Điện toán đám mây” có khả năng cung cấp rất đa dạng linh hoạt và kịp thời những thông tin cần thiết cho khách hàng. Điều đó có nghĩa là, các doanh nhân có khả năng truy cập chia sẻ nguồn tài nguyên, lấy các dữ liệu thông tin, đưa ra các quyết định kinh doanh kịp thời từ xa. Nhờ giải pháp “Điện toán đám mây”, một loạt các dịch vụ mạng mới đã xuất hiện và thỏa mãn ngày càng tốt hơn các yêu cầu đa dạng của khách hàng.

Những hạn chế của “Điện toán đám mây”

Thứ nhất, “Điện toán đám mây” có thể đem lại cho các cá nhân và doanh nghiệp rất nhiều tiện ích, nhưng bên cạnh đó là các nguy cơ mất an ninh thông tin từ mô hình này luôn luôn rình rập. Khách hàng lo ngại về việc các thông tin bí mật, nhạy cảm, quan trọng, có tính chất riêng tư… của họ có thể bị “rò rỉ”, bị “đánh cắp”, hoặc bị sử dụng vào các mục đích xấu, mang tính trục lợi nếu nhà cung cấp dịch vụ không làm tốt vấn đề quản trị mạng, bảo đảm an ninh thông tin. Mặt khác, “Điện toán đám mây” cũng đang phải đối mặt với các nguy cơ như virus, ăn cắp thông tin, lừa đảo trực tuyến, tấn công mạng…

Thứ hai, người dùng bị phụ thuộc vào công nghệ và chất lượng dịch vụ của nhà cung cấp, khiến cho sự linh hoạt và sáng tạo của họ bị giảm đi. Người sử dụng chỉ có quyền thực hiện những việc trong phạm vi nhà quản trị cho phép, hơn nữa, những thông tin mới nhất thường chưa được nhà mạng cập nhật kịp thời, trong khi khách hàng lại mong muốn bắt kịp những cải tiến mới nhất, do vậy khách hàng cảm thấy không được thỏa mãn, thậm chí tỏ ra bức bối bởi sự khống chế đó, hoặc do lỗi, nghẽn mạng.

Thứ ba, chỉ có thể ứng dụng “Điện toán đám mây” trên cơ sở một hạ tầng công nghệ thông tin đã phát triển ở mức độ nhất định. Điều này có nghĩa là, không thể sử dụng công nghệ này trên một nền tảng công nghệ thông tin sơ khai và lạc hậu, hoặc cũng không thể sử dụng giải pháp “Điện toán đám mây” một cách hiệu quả khi khách hàng không nối mạng, hoặc phải sử dụng các đường truyền thiếu tin cậy.

Dự báo về ứng dụng “Điện toán đám mây”

Các chuyên gia dự báo, công nghệ “Điện toán đám mây” sẽ được ứng dụng rộng rãi trên thế giới cũng như ở Việt Nam trong những năm tới.

“Điện toán đám mây” đang được phát triển và cung cấp bởi nhiều nhà cung cấp truyền thống như Sun Microsystems, HP, IBM, Intel, Cisco và Microsoft. “Điện toán đám mây” ngày càng được nhiều khách hàng quan tâm, từ cá nhân đến những doanh nghiệp, những công ty xuyên quốc gia chấp nhận và sử dụng:

Hãng Coca-Cola đã ký thỏa thuận đưa tất cả tài khoản e-mail của họ lên dịch vụ trực tuyến Microsoft Exchange Online; Hãng Oracle vừa công bố kế hoạch của hãng này về việc triển khai “Điện toán đám mây”; Tập đoàn HP cũng khẳng định sẽ xây dựng dịch vụ đám mây trên nền webOS...

Năm 2011 Chính phủ Trung Quốc chủ trương đầu tư mạnh vào thị trường “Điện toán đám mây” và ngành này tại Trung Quốc đã tăng trưởng 30% trong năm 2012. Ấn Độ cũng dự kiến sẽ đạt doanh thu 4,5 tỉ USD vào năm 2015.

Tại Mỹ, “Điện toán đám mây” đã trở thành giải pháp phổ biến thay cho công nghệ điện toán truyền thống kể từ năm 2011. Chính phủ Mỹ khuyến khích các cơ quan Liên bang sử dụng “Điện toán đám mây” và coi đây là một trong những giải pháp hữu hiệu để tiết kiệm kinh phí đầu tư cho công nghệ thông tin, góp phần giảm thiểu thâm hụt ngân sách. Quốc hội Mỹ đã yêu cầu Bộ Quốc phòng nước này chấp nhận giải pháp “Điện toán đám mây” nhằm tiết kiệm chi phí cho việc lưu trữ khối dữ liệu khổng lồ đang nằm ở Bộ Quốc phòng Mỹ.

Đối với Việt Nam, công nghệ “Điện toán đám mây” được coi là một trong những giải pháp hữu hiệu cho những vấn đề mà nhiều doanh nghiệp đang gặp phải như thiếu năng lực công nghệ thông tin, kinh phí đầu tư còn hạn chế… Trên thực tế đã có một số khách hàng tiếp cận dịch vụ đám mây thông qua các dự án của một số doanh nghiệp nước ngoài như Microsoft, Intel…, và bước đầu chấp nhận loại hình dịch vụ này.

Theo các chuyên gia công nghệ thông tin, việc ứng dụng công nghệ “Điện toán đám mây” có thể giúp các doanh nghiệp tiết kiệm hàng triệu USD mỗi năm. Tuy nhiên, xét về mặt lợi ích kinh tế thuần túy, thực tiễn cho thấy, có những doanh nghiệp lớn, có doanh nghiệp vừa và nhỏ, có những khách hàng với tư cách chỉ là một cá nhân, do vậy những tiện ích do “Điện toán đám mây” đưa lại cho họ là khác nhau.

Xét về mặt chính trị-xã hội, ngoài những thông tin có ý nghĩa nhân bản và nhân đạo, còn có những thông tin xuyên tạc sự thật với những mưu toan chính trị xấu cần được ngăn chặn, nhưng nó lại được cài đặt từ những máy chủ ảo từ xa, đang làm tổn hại đến danh dự quốc thể và chế độ. Tuy nhiên, việc gỡ bỏ những thông tin xấu đang trôi nổi trên đám “mây” lại không đơn giản, bởi nó liên quan đến những điều kiện pháp lý rất phức tạp.

Chuyên gia nước ngoài cho rằng, “Việt Nam xác định công nghệ thông tin-truyền thông là một ngành mũi nhọn trong nền kinh tế quốc gia, và “Điện toán đám mây” có khả năng thúc đẩy điều này. Việt Nam nên triển khai công nghệ “Điện toán đám mây” phù hợp với nhu cầu kinh doanh của mình, chẳng hạn như một vài doanh nghiệp vẫn tiếp tục sử dụng phần mềm chạy ngay trên máy tính, một số khác sẽ hoàn toàn sử dụng “Điện toán đám mây”, hoặc lại có những doanh nghiệp kết hợp cả hai”.

Như vậy, công nghệ “Điện toán đám mây” là sự tiến bộ vượt bậc của khoa học-công nghệ và tin học hiện đại, có khả năng lưu trữ và xử lý toàn bộ khối lượng thông tin khổng lồ trong “đám mây” Internet, đưa lại rất nhiều tiện ích cho người dùng cả về thông tin và kinh tế. Mặc dù những hạn chế của công nghệ “Điện toán đám mây”, đặc biệt là vấn đề đảm bảo an ninh thông tin khi sử dụng loại dịch vụ này đang gây quan ngại cho người dùng. Tuy nhiên, công nghệ “Điện toán đám mây” vẫn là sự lựa chọn của con người trong thời đại hiện nay.

Quản lý sự gia tăng nhanh chóng của máy chủ ảo (VPS)

Theo một nghiên cứu mới đây của Viện Nghiên cứu giá trị kinh doanh IBM, có tới 90% số tổ chức được khảo sát có dự kiến ứng dụng hoặc triển khai trên quy mô lớn một mô hình điện toán đám mây trong vòng 3 năm tới.



Khi các tổ chức triển khai bước đi tiếp theo sau khi đã ảo hóa các trung tâm dữ liệu và mở rộng các môi trường điện toán đám mây của mình, sẽ phải đối mặt với thách thức quản lý sự gia tăng nhanh chóng của các máy chủ ảo. Chính vì thế, công bố của IBM tại Việt Nam về những phần mềm - giải pháp mới với khả năng tăng cường thông tin, mức độ kiểm soát và tự động hóa trên các môi trường điện toán đám mây và môi trường truyền thống… là những bước phát triển quan trọng về cấp độ an ninh thông tin, mức độ kiểm soát và tự động hóa dành cho các tổ chức trong việc quản lý và triển khai các dịch vụ điện toán đám mây một cách an toàn.
Cụ thể hơn, những giải pháp trên nền tảng IBM SmartCloud bao gồm giải pháp quản lý vòng đời tích hợp của các dịch vụ điện toán đám mây, giải pháp đảm bảo tính liên tục của dịch vụ, giải pháp giám sát môi trường điện toán đám mây thông minh… sẽ giảm được 20% chi phí tài nguyên và đồng thời nâng cao được mức độ ổn định trong các môi trường triển khai nhờ tự động hóa và tự phục vụ; nâng cao độ linh hoạt tới 40% bằng cách đồng bộ hóa hoạt động cộng tác trong quá trình vận hành và phát triển với khả năng truyền thông theo ngữ cảnh; tăng 20% về độ sẵn sàng và hiệu năng của dịch vụ ứng dụng thông qua cải thiện mức độ gắn kết của các hoạt động phát triển, kiểm thử và vận hành của các bên liên quan…
“Số lượng máy chủ ảo tăng gấp ba lần sau mỗi chu kỳ 2 năm, hơn cả mức độ gia tăng gấp đôi của công suất tính toán trong khi ngân sách CNTT gần như không đổi. Với thực tiễn như vậy, cứ sau mỗi 2 năm sẽ cần thêm 1,5 lần cơ sở hạ tầng vật lý để hỗ trợ môi trường điện toán đám mây với đòi hỏi về nhân công cao gấp hai lần. Đó là một vấn đề không bền vững về mặt chi phí và quản lý cũng như hoàn toàn trái ngược với những triển vọng của điện toán đám mây” - ông Trần Viết Huân, Giám đốc công nghệ, IBM Việt Nam, cho biết như vậy.
Chính vì thế, các giải pháp SmartCloud Foundation của IBM cho phép các tổ chức lắp đặt, quản lý, cấu hình và tự động hóa việc tạo ra các dịch vụ điện toán đám mây trong các môi trường điện toán đám mây riêng, công cộng hoặc lai với một cấp độ kiểm soát cao hơn so với trước đây. Các giải pháp này hạ thấp chi phí và nâng cao mức độ kiểm soát hoạt động chuyển đổi để triển khai điện toán đám mây song song với các môi trường sản xuất của tổ chức ứng dụng.

Điện toán đám mây giúp ngành Giáo dục nâng chất lượng!

 Điện toán đám mây được xem là đại diện cho một mô hình công nghệ mang tính cách mạng có thể nâng cao đáng kể chất lượng giáo dục cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng tại Việt Nam .


Thông tin này vừa được chia sẻ tại Hội thảo Giải pháp Công nghệ Thông minh và Hiệu quả cho ngành giáo dục, với điện toán đám mây do IBM tổ chức. Điện toán đám mây được xem là đại diện cho một mô hình công nghệ mang tính cách mạng, có thể nâng cao đáng kể chất lượng giáo dục cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng tại Việt Nam . 

Chẳng hạn như, một sinh viên khoa toán có thể ngồi tại ký túc xá kết nối Internet và truy cập điện toán đám mây để tìm một máy chủ vật lý hay máy chủ ảo với dung lượng lưu trữ cần thiết, cùng với một phần mềm toán học MATLAB để chạy một bài tập về nhà. Một giảng viên cũng có thể truy cập chính đám mây đó để đề nghị một máy chủ ảo cho mỗi sinh viên thực hiện một dự án dựa trên phần mềm TinkerPlots.

Sau khi sử dụng sau, các tài nguyên này lại được trả lại về đám mây để phân bổ cho người dùng tiếp theo. Các nguồn lực này chỉ được sử dụng khi cần, vì vậy tối ưu hóa việc sử dụng các phần cứng và giấy phép phần mềm, đồng thời tối thiểu hóa chi phí năng lượng và mua sắm hàng năm. Một đặc điểm quan trọng nữa là các sinh viên và giáo viên có thể truy cập các tài nguyên này 24x7, từ lớp, từ nhà hay từ ký túc xá.

Trường Đại học Công nghệ Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHCNTT HCM) là trường đại học đầu tiên, đồng thời cũng là tổ chức đầu tiên tại Việt Nam , triển khai giải pháp điện toán đám mây dựa trên hệ thống IBM PureSystems. Hệ thống IBM PureSystems sẽ thay thế cho cơ sở hạ tầng CNTT phức tạp của trường hiện đang hỗ trợ các hoạt động đào tạo, nghiên cứu và các hoạt động nội bộ khác.

Theo ông Dương Anh Đức, Hiệu trưởng ĐHCNTT HCM, để giữ vững được vị thế đi đầu trong ngành, điều quan trọng là các sinh viên và giảng viên nhà trường phải có được khả năngtruy cập ngay tức thì và thường xuyên vào các nguồn tài nguyên đào tạo của nhà trường. Do đó, chúng tôi muốn phát triển một “thư viện ảo” linh hoạt, được tùy chỉnh theo nhu cầu của cộng đồng học thuật đang ngày càng gia tăng của trường.

Ông Đức tin rằng, công nghệ IBM PureSystems sẽ giúp nhà trường truy cập một cách linh hoạt và dễ dàng đến rất nhiều ứng dụng đa dạng trong tương lai, với mức độ tích hợp và tối ưu hóa sâu, cùng những kiến thức và kinh nghiệm sâu rộng có được từ hàng nghìn dự án triển khai trước đây của IBM.

Danh mục giải pháp điện toán đám mây của IBM dành cho ngành giáo dục bao gồm từ các giải pháp đám mây riêng, đám mây công cộng, đám mây lai đến các giải pháp IBM desktop cloud, giải pháp tự động cấp phát và quản lý tài nguyên IBM SmartCloud Provisioning, giải pháp hệ thống tích hợp IBM PureSystems hỗ trợ tăng tốc triển khai điện toán đám mây…